Sáng 01/7, trong khuôn khổ Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18/01/2002 và Kết luận số 12-KL/TW ngày 24/10/2011 của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm QP-AN vùng Tây Nguyên, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Nguyễn Đình Trung đã phát biểu tham luận về kết quả thực hiện Nghị quyết số 10 và Kết luận số 12 tại tỉnh Đắk Lắk và nhiệm vụ, giải pháp phát triển tỉnh Đắk Lắk với vai trò trung tâm, liên kết, điều phối vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trong đó, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã kiến nghị Trung ương quan tâm, xem xét hỗ trợ, đầu tư cho tỉnh Đắk Lắk nói riêng, vùng Tây Nguyên nói chung về cơ sở hạ tầng và một số công trình, dự án lớn nhằm tạo sức lan tỏa cho toàn vùng.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Nguyễn Đình Trung phát biểu tham luận tại Hội nghị
Theo đó, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Nguyễn Đình Trung cho biết, sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 10 và Kết luận số 12, được sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ của Trung ương, cùng với sự nỗ lực, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và sự ủng hộ của nhân dân trên địa bàn tỉnh, KT-XH của tỉnh Đắk Lắk đã có những chuyển biến quan trọng. Cụ thể, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, giai đoạn 2002-2020, tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 13,8%/năm; quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng, tăng gấp 11 lần, từ 5.600 tỷ đồng năm 2002 lên 61.800 tỷ đồng vào năm 2020.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng định hướng, từng bước giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của các bộ phận dân cư từng bước được cải thiện, GRDP bình quân đầu người tăng nhanh, năm 2020 đạt 53,98 triệu đồng/người, gấp 18,4 lần năm 2002. Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng đều qua các năm, năm 2020 đạt 8.294 tỷ đồng, cao gấp 18,76 lần so với năm 2002. Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt cao và tăng qua các năm. Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước đạt tốc độ tăng trưởng khá, giai đoạn 2002-2020, tỉnh Đắk Lắk có trên 13.300 doanh nghiệp dân doanh thành lập mới với số vốn đăng ký hoạt động hơn 89.500 tỷ đồng.
Quang cảnh Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 10 và Kết luận số 12
Các hoạt động văn hóa, xã hội, chăm sóc sức khỏe người dân, an sinh xã hội, chính sách giảm nghèo, người có công được triển khai đồng bộ, kịp thời; chất lượng giáo dục, y tế và đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân được nâng lên. Công tác dân tộc và việc triển khai các chương trình, đề án, chính sách hỗ trợ cho đối tượng là hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) được quan tâm triển khai thực hiện, đời sống đồng bào các DTTS ngày càng được nâng cao. Giai đoạn 2011-2020, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh giảm bình quân 4,54%/năm. Đến cuối năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 6,34%, trong đó hộ nghèo đồng bào DTTS giảm còn 14,08%. QP-AN được tăng cường, giữ vững, tạo môi trường thuận lợi để phát triển KT-XH; hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được tăng cường.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đình Trung cũng nêu lên một số tồn tại, hạn chế của Đắk Lắk trong quá trình thực hiện triển khai Nghị quyết số 10 và Kết luận số 12 như: tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, phát triển còn thiếu tính ổn định và bền vững. Kết cầu hạ tầng KT-XH chưa đồng bộ, nhất là giao thông kết nối. Thu hút đầu tư còn hạn chế, đặc biệt là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, nhất là đối với các hộ nghèo đồng bào DTTS. Phát triển văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập. An ninh, chính trị, trật tự xã hội còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định; tình hình tranh chấp, khiếu kiện nhất là liên quan đến các nông, lâm trường và đồng bào DTTS, gây mất an ninh trật tự còn diễn ra; việc triển khai Kết luận số 60-KL/TW ngày 27/11/2009 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển TP.Buôn Ma Thuột chưa đạt được kỳ vọng như mong đợi, TP.Buôn Ma Thuột vẫn chưa thực sự đóng vai trò là đô thị trung tâm mang đặc sắc riêng của vùng Tây Nguyên; chưa thực sự trở thành một cực tăng trưởng với những tác động lan tỏa tích cực tới các tỉnh khác trong vùng.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đình Trung khảo sát tuyến đường dự kiến triển khai cao tốc Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột
Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do xuất phát điểm KT-XH của tỉnh thấp, kết cấu hạ tầng của tỉnh chưa đồng bộ, đặc biệt là hạ tầng giao thông liên kết; nguồn vốn đầu tư khó khăn do chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển; do yếu tố đặc thù về vị trí địa lý, địa bàn của tỉnh nên việc thu hút đầu tư, nhất là thu hút vốn FDI còn gặp nhiều khó khăn. Công tác chỉ đạo, điều hành giữa các ngành, các cấp đã có sự phối hợp nhưng chưa thật sự quyết liệt, đồng bộ để xử lý các vần đề phát sinh trong điều kiện KT-XH gặp nhiều khó khăn.
Từ thực tế trên, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đình Trung đã đề xuất một số ý kiến, kiến nghị như: đề nghị Trung ương xem xét, sớm ban hành Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Buôn Ma Thuột theo Kết luận số 67 của Bộ Chính trị; quan tâm đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng thiết yếu, đặc biệt là hạ tầng giao thông kết nối của Đắk Lắk, cũng như vùng Tây Nguyên nói chung nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân, tạo thuận lợi cho các tỉnh trong vùng thu hút hơn nữa nguồn lực, phục vụ phát triển Kt-XH.
Cụ thể, ngoài tuyến cao tốc Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột, kính đề nghị Trung ương quan tâm đầu tư các tuyến cao tốc kết nối tỉnh Đắk Lắk, cũng như các tỉnh Tây Nguyên với các tỉnh trong vùng, khu vực và tỉnh đầu tàu phát triển cả nước. Quan tâm đầu tư một số tuyến giao thông liên kết nội vùng Tây Nguyên như: cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 27 nối tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Đắk Lắk; tuyến Quốc lộ 29 nối tỉnh Đắk Lắk với tỉnh Phú Yên; xem xét, bổ sung tuyến đường sắt Tuy Hòa – Buôn Ma Thuột vào quy hoạch đường sắt quốc gia; hỗ trợ Cảng Hàng không Buôn Ma Thuột thành Cảng Hàng không quốc tế.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đình Trung trao đổi với các đơn vị liên quan về Dự án đường Đông Tây TP. Buôn Ma Thuột
Bên cạnh đó, quan tâm đầu tư xây dựng một số công trình, dự án lớn, tạo sức lan tỏa cho toàn vùng như: Trường Đại học Y Dược vùng Tây Nguyên, Bệnh viện tuyến Trung ương tại Đắk Lắk, nâng cấp Trường Đại học Tây Nguyên, xây dựng Trung tâm đổi mới, sáng tạo khu vực Tây Nguyên…; cho phép tỉnh Đắk Lắk tiếp tục đăng cai, tổ chức Lễ hội Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên; xây dựng đền thờ Vua Hùng của vùng Tây Nguyên tại tỉnh Đắk Lắk.
Bên cạnh đó, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đình Trung cũng nhấn mạnh một số nhiệm vụ, giải pháp mà tỉnh Đắk Lắk tập trung thực hiện trong thời gian tới như: tiếp tục dựa vào lợi thế của mình, khai thác tốt hơn nữa tiềm năng hiện có, đặc biệt là các ngành còn nhiều dư địa để phát triển KT-XH nhanh, bền vững dựa trên 4 trụ cột tăng trưởng là: Phát triển các sản phẩm nông, lâm sản lợi thế quy mô lớn, chất lượng cao, xuất khẩu lớn. Công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản và sản xuất năng lượng tái tạo quy mô lớn. Kinh tế đô thị, hạ tầng số, hạ tầng thủy lợi. Dịch vụ – logistic – du lịch dựa trên nền tảng số, kinh tế số, xã hội số. Hoàn thành việc lập, trình phê duyệt và triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch tỉnh Đắk Lắk thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, bảo đảm phù hợp với các Quy hoạch cấp quốc gia, Quy hoạch ngành quốc gia và vùng Tây Nguyên theo Kết luận số 67-KL/TW; tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng năng cao chất lượng, hiểu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; tập trung phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, thực hiện hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, chăm lo đời sống người dân…